Bước tới nội dung

Electronica

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Electronica là một thể loại nhạc dựa trên nhạc điện tử nhằm mục đích để nghe hơn là để khiêu vũ[1][2] và là một loại nhạc nổi tiếng vào những năm 1990.[1] Tại Hoa Kỳ, thuật ngữ này được dùng để sử dụng cho loại nhạc điện tử nói chung.[3]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước thập niên 90: nguồn gốc hình thành và bối cảnh của nước Anh

[sửa | sửa mã nguồn]

Việc sử dụng rộng rãi thuật ngữ "electronica" xuất phát từ tiếng Anh và có ảnh hưởng lớn từ nhạc experimental techno nhãn New Electronica, một trong những đơn vị hàng đầu những năm 1990 phát hành và hỗ trợ nhạc điện tử dựa trên hướng nhạc khiêu vũ tại nhà hơn là khiêu vũ chơi trên sàn,[1] mặc dù từ "electronica" đã bắt đầu gắn liền với âm nhạc từ synthesizer ngay từ năm 1983 , khi một "Lễ hội Electronica nước Anh" lần đầu được tổ chức.[4][5][6] Vào thời điểm đó electronica được biết đến là một loại "nhạc nghe điện tử", cũng ít nhiều đồng nghĩa với ambient technointelligent techno, nó được coi là khác biệt với các thể loại nhạc mới nổi khác ví dụ như jungletrip hop.[1]

Các nghệ sĩ Electronica sau này thành công trong thương mại âm nhạc và bắt đầu tạo những bản thu âm vào cuối những năm 1980, trước khi thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi, bao gồm luôn cả những thể loại như the Prodigy, Fatboy Slim, Daft Punk, the Chemical Brothers, the Crystal Method, Moby, UnderworldFaithless.[7]

Giữa thập niên 90: ảnh hưởng đến âm nhạc đại chúng

[sửa | sửa mã nguồn]

Khoảng giữa những năm 90, với sự thành công của big beat được thể hiện bởi Chemical Brothers và Prodigy tại Vương Quốc Anh, đồng thời được chú ý bởi các nghệ sĩ âm nhạc, bao gồm Madonna trong sự kết hợp của cô với William Orbit trong album Ray of Light[8] và ca sĩ người Úc Dannii Minogue với album Girl năm 1997,[9] âm nhạc thời kì này được sản xuất với kinh phí cao hơn, tăng về chất lượng của sản phẩm âm nhạc, với nhiều lớp hơn hầu hết các thể loại dance music khác, vì nó được hỗ trợ bởi hãng đĩa major record labels và MTV nó được coi là "điều lớn lao tiếp theo".[10]

Theo một bài báo trên Billboard vào năm 1997, "sự kết hợp của câu lạc bộ cộng đồng với các Hãng đĩa độc lập" đã cung cấp môi trường thử nghiệm và tạo ra xu hướng trong đó các hoạt động electronica phát triển và trở thành xu hướng chủ đạo. Nó trích dẫn các nhãn hiệu của Hoa Kỳ như Astralwerks (the Chemical Brothers, Fatboy Slim, the Future Sound of London, Fluke), Moonshine (DJ Keoki), Sims, và City of Angels (the Crystal Method) vì đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khám phá và tiếp thị những nghệ sĩ đã trở nên nổi tiếng trong làng nhạc điện tử.[11]

Madonna và Björk được cho là[bởi ai?] chịu trách nhiệm đưa nhạc điện tử vào nền văn hóa mainstream, với những album của họ như Ray of Light (Madonna),[8] PostHomogenic (Björk).

Cuối thập niên 90: sự hoà nhập của Mỹ

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong năm 1997, ngành công nghiệp âm nhạc chính thống Bắc Mỹ đã áp dụng và ở một mức độ nào đó đã sản xuất nhạc điện tử như một thuật ngữ chung bao gồm các phong cách như techno, big beat, drum and bass, trip hop, downtempo, và ambient, bất kể nó có được các hãng indie quản lý hay không, nó phục vụ cho các hộp đêm "ngầm" và các cảnh rave,[11][12] hoặc được các hãng lớn cấp phép và tiếp thị cho khán giả đại chúng như một giải pháp thay thế khả thi về mặt thương mại cho nhạc alternative rock.[13]

Thành phố New York đã trở thành một trung tâm thử nghiệm và phát triển âm thanh điện tử, với các DJ và nhà sản xuất âm nhạc từ các khu vực đa dạng như Đông Nam Á và Brazil mang tác phẩm sáng tạo của họ đến các hộp đêm của thành phố đó.[14][15]

Đặc điểm và định nghĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Electronica được hưởng lợi từ những tiến bộ trong công nghệ âm nhạc, đặc biệt là các nhạc cụ điện tử, bộ tổng hợp, bộ phối âm nhạc, máy trống, và máy trạm âm thanh kỹ thuật số. Khi công nghệ phát triển, Khi công nghệ phát triển, các cá nhân hoặc nhóm nhỏ hơn có thể sản xuất các bài hát và bản ghi âm điện tử trong các phòng thu nhỏ hơn, thậm chí trong phòng thu dự án. Trong cùng thời gian đó, máy tính đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các "samples" và "loops" âm nhạc làm bộ công cụ xây dựng các tác phẩm âm thanh.[16] Điều này dẫn đến một thời kỳ thử nghiệm sáng tạo và phát triển các hình thức mới, một số trong đó được gọi là điện tử.[17][18] Phạm vi ảnh hưởng rộng lớn, cả âm thanh và thành phần, được kết hợp trong bản ghi âm điện tử.[19]

Electronica bao gồm nhiều loại hình và phong cách âm nhạc khác nhau, được liên kết bởi thiên hướng sản xuất điện tử một cách công khai;[20] một phạm vi bao gồm các nghệ sĩ nổi tiếng hơn như Björk, Madonna, Goldfrapp, các nghệ sĩ

IDnhưts Autechrevànd Aphex Twin.

Sự khác biệt giữa các khu vực

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngành công nghiệp âm nhạc mainstream ở Bắc Mỹ sử dụng thuật ngữ này như một danh mục chung để chỉ bất kỳ phong cách âm nhạc điện tử dựa trên dance nào có tiềm năng thu hút nhạc pop.[1] AllMusic có trụ sở tại Mỹ vẫn phân loại nhạc điện tử là một thể loại cấp cao nhất, tuyên bố rằng nó bao gồm grooves, cũng như âm nhạc dành cho tai nghe và khu vực nghe nhạc chillout.[21]

Ở những nơi khác trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Electronica cũng là một thuật ngữ rộng, nhưng gắn liền với âm nhạc không thiên về khiêu vũ, bao gồm các phong cách nghe nhạc điện tử tương đối experimental. Nó một phần trùng lặp với thứ được biết đến chủ yếu bên ngoài Vương quốc Anh là nhạc IDM (IDM).[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g Vladimir Bogdanov; Jason Ankeny (2001). All music guide to electronica: the definitive guide to electronic music (ấn bản thứ 4). Backbeat Books. tr. 634. ISBN 0-87930-628-9.
  2. ^ Verderosa, Tony (2002). The Techno Primer: The Essential Reference for Loop-Based Music Styles. Hal Leonard Music/Songbooks. tr. 28. ISBN 0-634-01788-8. .
  3. ^ Campbell, Michael (2012). “Electronica and Rap”. Popular Music in America: The Beat Goes On (ấn bản thứ 4). Cengage Learning. ISBN 978-0840029768.
  4. ^ Levermore, Gary (tháng 3 năm 2000). “Attrition reminiscence”. Attrition. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2022.
  5. ^ Gregory, Andy (2002). The International Who's Who in Popular Music 2002. Taylor & Francis Group. tr. 466. ISBN 9781857431612.
  6. ^ International Who's who in Music Popular music. Vol. two. Melrose Press. 2000. tr. 429. ISBN 0948875070.
  7. ^ "Crystal Method...grew from an obscure club-culture due to one of the most recognizable acts in electronica, ...", page 90, Wired: Musicians' Home Studios : Tools & Techniques of the Musical Mavericks, Megan Perry, Backbeat Books Music/Songbooks 2004, ISBN 0-87930-794-3
  8. ^ a b “Billboard: Madonna Hung Out on the Radio”. Billboard. VNU Media. tháng 7 năm 2006.
  9. ^ Girl (Dannii Minogue album)
  10. ^ "Electronica reached new heights within the culture of rave and techno music in the 1990s." Page 185, Music and Technoculture, Rene T. A. Lysloff, Tandem Library Books, 2003, ISBN 0-613-91250-0
  11. ^ a b Flick, Larry (24 tháng 5 năm 1997). “Dancing to the beat of an indie drum”. Billboard. 109 (21). tr. 70–71. ISSN 0006-2510.
  12. ^ Kim Cascone (Winter 2002). “The Aesthetics of Failure: 'Post-Digital' Tendencies in Contemporary Computer Music”. Computer Music Journal. MIT Press. 24 (4). The glitch genre arrived on the back of the electronica movement, an umbrella term for alternative, largely dance-based electronic music (including house, techno, electro, drum'n'bass, ambient) that has come into vogue in the past five years. Most of the work in this area is released on labels peripherally associated with the dance music market, and is therefore removed from the contexts of academic consideration and acceptability that it might otherwise earn. Still, in spite of this odd pairing of fashion and art music, the composers of glitch often draw their inspiration from the masters of 20th-century music who they feel best describe its lineage.
  13. ^ Norris, Chris (21 tháng 4 năm 1997). “Recycling the Future”. New York: 64–65. With record sales slumping and alternative rock presumed over, the music industry is famously desperate for a new movement to replace its languishing grunge product. And so its gaze has fixed on a vital and international scene of knob-twiddling musicians and colorfully garbed clubgoers—a scene that, when it began in Detroit discos ten years ago, was called techno. If all goes according to marketing plan, 1997 will be the year "electronica" replaces "grunge" as linguistic plague, MTV buzz, ad soundtrack, and runway garb. The music has been freshly installed in Microsoft commercials, in the soundtrack to Hollywood's recycled action-hero pic The Saint, and in MTV's newest, hourlong all-electronica program, Amp.
  14. ^ "In 2000, [Brazilian vocalist Bebel] Gilberto capitalized on New York's growing fixation with cocktail lounge ambient music, an offshoot of the dance club scene that focused on drum and bass remixes with Brazilian sources. ...Collaborating with club music maestros like Suba and Thievery Corporation, Gilberto thrust herself into the leading edge of the emerging Brazilian electronica movement. On her immensely popular Tanto Tempo (2000)..." Page 234, The Latin Beat: The Rhythms and Roots of Latin Music from Bossa Nova to Salsa and Beyond, Ed Morales, Da Capo Press, 2003, ISBN 0-306-81018-2
  15. ^ "founded in 1997,...under the slogan 'Musical Insurgency Across All Borders', for six years [Manhattan nightclub] Mutiny was an international hub of the south Asian electronica music scene. Bringing together artists from different parts of the south Asia diaspora, the club was host to a roster of British Asian musicians and DJs..." Page 165, Youth Media , Bill Osgerby, Routledge, 2004, ISBN 0-415-23807-2
  16. ^ "This loop slicing technique is common to the electronica genre and allows a live drum feel with added flexibility and variation." Page 380, DirectX Audio Exposed: Interactive Audio Development, Todd Fay, Wordware Publishing, 2003, ISBN 1-55622-288-2
  17. ^ "Electronically produced music is part of the mainstream of popular culture. Musical concepts that were once considered radical - the use of environmental sounds, ambient music, turntable music, digital sampling, computer music, the electronic modification of acoustic sounds, and music made from fragments of speech-have now been subsumed by many kinds of popular music. Record store genres including new age, rap, hip-hop, electronica, techno, jazz, and popular song all rely heavily on production values and techniques that originated with classic electronic music." Page 1, Electronic and Experimental Music: Pioneers in Technology and Composition, Thomas B. Holmes, Routledge Music/Songbooks, 2002, ISBN 0-415-93643-8
  18. ^ "Electronica and punk have a definite similarity: They both totally prescribe to a DIY aesthetic. We both tried to work within the constructs of the traditional music business, but the system didn't get us - so we found a way to do it for ourselves, before it became affordable.", quote from artist BT, page 45, Wired: Musicians' Home Studios : Tools & Techniques of the Musical Mavericks, Megan Perry, Backbeat Books Music/Songbooks 2004, ISBN 0-87930-794-3
  19. ^ " For example, composers often render more than one version of their own compositions. This practice is not unique to the mod scene, of course, and occurs commonly in dance club music and related forms (such as ambient, jungle, etc.—all broadly designated 'electronica')." Page 48, Music and Technoculture, Rene T. A. Lysloff, Tandem Library Books, 2003, ISBN 0-613-91250-0
  20. ^ "Electronica lives and dies by its grooves, fat synthesizer patches, and fliter sweeps.". Page 376, DirectX Audio Exposed: Interactive Audio Development, Todd Fay, Wordware Publishing, 2003, ISBN 1-55622-288-2
  21. ^ "'Reaching back to grab the grooves of '70s disco/funk and the gadgets of electronic composition, Electronica soon became a whole new entity in and of itself, spinning off new sounds and subgenres with no end in sight two decades down the pike. Its beginnings came in the post-disco environment of Chicago/New York and Detroit, the cities who spawned house and techno (respectively) during the 1980s. Later in that decade, club-goers in Britain latched onto the fusion of mechanical and sensual, and returned the favor to hungry Americans with new styles like jungle/drum'n'bass and trip hop. Though most all early electronica was danceable, by the beginning of the '90s, producers were also making music for the headphones and chill-out areas as well, resulting in dozens of stylistic fusions like ambient-house, experimental techno, tech-house, electro-techno, etc. Typical for the many styles gathered under the umbrella was a focus on danceable grooves, very loose song structure (if any), and, in many producers, a relentless desire to find a new sound no matter how tepid the results." Electronica Genre trên AllMusic
  • James Cummins. 2008. Ambrosia: About a Culture – An Investigation of Electronica Music and Party Culture. Toronto, ON: Clark-Nova Books. ISBN 978-0-9784892-1-2
pFad - Phonifier reborn

Pfad - The Proxy pFad of © 2024 Garber Painting. All rights reserved.

Note: This service is not intended for secure transactions such as banking, social media, email, or purchasing. Use at your own risk. We assume no liability whatsoever for broken pages.


Alternative Proxies:

Alternative Proxy

pFad Proxy

pFad v3 Proxy

pFad v4 Proxy